Chiến công lẫy lừng của quân dân Kiến An trong trận đánh sân bay Cát Bi tháng 3-1954 “chia lửa” cho Điện Biên Phủ đã đi vào những trang vàng của lịch sử. Trong trận đó có một người được bình bầu là “dũng sĩ số 1”, đó là Tổ trưởng trinh sát Mai Năng.
Ông tên thật là Tạ Văn Thiều, sinh năm 1930, người xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng. Còn bí danh Mai Năng, theo ông giải thích, có nghĩa là sự năng động, sáng tạo để đi đến ngày mai. Đây là cái tên gắn với ông ngay từ những năm tháng hoạt động quân báo ở Hải Phòng, thời kháng chiến chống thực dân Pháp…
TRẬN TẬP KÍCH SÂN BAY CÁT BI CHIA LỬA VỚI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
(Ký ức của Dũng sĩ Cát Bi – người đã góp công làm một Điện Biên 7/3/1954)
“Chín năm làm một điện biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng ”.
Năm 1950, tôi là bộ đội quân báo của Tỉnh đội Kiến An, sau là tổ trưởng tổ trinh sát hậu địch chủ yếu ở khu vực Hải Phòng. Tháng 7-1953, tôi đang chuẩn bị cho trận đánh ở Đồ Sơn thì được điều về giao nhiệm vụ trinh sát chuẩn bị cho trận đánh sân bay Cát Bi. Ông là người chỉ huy phân đội trinh sát tìm đường đánh vào sân bay Cát Bi, sau đó trực tiếp chỉ huy một mũi tấn công tham dự trận Cát Bi (7/3/1954) (có 2 mũi tấn công, với 32 người).
Sân bay Cát Bi là sân bay lớn thứ nhất của Pháp ở Bắc Đông Dương, một cầu hàng không lớn nhất trong thời kỳ Pháp xâm lược, có trên dưới 200 máy bay các loại. Sân bay nằm sâu trong hậu phương của địch, có 3 mặt giáp sông, biển và một mặt giáp Hải Phòng, đựợc xây dựng một hệ thống bố phòng rất kiên cố. Lực lượng của địch thời điểm cao nhất tới 7 tiểu đoàn chủ yếu là Âu – Phi, lê dương, lực lượng thám báo người Việt. Xung quanh sân bay gồm 78 đồn bốt, tháp canh chia làm 3 tuyến vành ngoài, vành đai và trung tâm, 13 vị trí đề phòng tập kích phòng không, có 6 hàng rào dây thép gai bãi mìn, hàng ngàn đèn điện, mấy chục ngọn đèn pha chiếu quét làm cho sân bay đêm cũng như ngày, một con chuột nhắt chạy qua cũng bị phát hiện. Cứ 15 phút có một trung đội Âu-Phi trang bị cơ giới và chó nghiệp vụ tuần tra quanh sân bay một lần. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của một thiếu tướng Pháp và cố vấn Mỹ. Để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho sân bay, bọn địch đã dựng một “vành đai trắng” xung quanh. Ngoài ra, hệ thống đồn bốt dọc trục đường 14 đi Đồ Sơn cũng là một lực lượng bảo vệ sân bay chiến lược này từ xa.
Đó là tất cả những khó khăn, thử thách đối với công tác trinh sát. Tổ trinh sát gồm 4 người: tôi – Mai Năng – tổ trưởng và 3 chiến sỹ My, Hồng, Diệp. Huyện Kiến Thuỵ cử một tổ 3 đồng chí trong đó có đồng chí là uỷ viên ban thường vụ đảng uỷ xã Hoà Nghĩa sang hỗ trợ. Việc đi lại, ăn ở, sinh hoạt chồng chất khó khăn bởi chưa có một cơ sở nào của ta ở địa bàn quanh sân bay. Những ngày đầu trinh sát phải nằm ngoài bờ bụi, bãi sú. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, hằng tháng trời chưa xây dựng được một cơ sở. Đột nhiên tối hôm đó, một gia đình đóng cửa che đèn gọi bộ đội vào cho cơm ăn. Bà cụ vừa thở vừa nói: “Mẹ biết các con về lâu rồi ”. Chúng tôi giật mình. Rồi mẹ khuyên, địch đang khủng bố dữ, hay các con tạm lánh ra vùng tự do một thời gian. Tôi cảm động và thưa với mẹ: “Cảm ơn mẹ, chúng con là cháu Bác Hồ, con của nhân dân. Nhiệm vụ của chúng con là xây dựng phong trào để giải phóng quê hương. Dù khó khăn gian khổ thế nào, chúng con cũng không thể bỏ dân mà đi được. Chúng con sẽ bám dân, bám đất cho đến ngày giải phóng”. Nghe chúng tôi bày tỏ quyết tâm, mẹ đã khóc và nói: “Từ nay các con vào, dùng ngón tay gõ nhẹ là mẹ biết”. Đó là mẹ Sàng – một cơ sở đầu tiên của tổ trinh sát ở thôn Hoà Nghĩa. Từ nhà mẹ Sàng, chúng tôi xây dựng và phát triển thêm những cơ sở mới như mẹ Tính, mẹ Vo, mẹ Tạ… Một tuần sau, mẹ Sàng bảo tôi: “Các con cứ đi đi về về thế này vất vả mà không ổn, thôi các con đào hầm bí mật trong nhà mẹ mà ăn nghỉ”. Mẹ còn giao nhiệm vụ cho anh Hàn, con trai mẹ làm nhiệm vụ canh gác cho chúng tôi. Hơn năm mươi năm trôi qua, giờ các mẹ cũng đã về nơi suối vàng nhưng hình ảnh những người mẹ yêu nước thôn Hoà Nghĩa năm ấy còn mãi trong tôi. Từ những cơ sở đó, chúng tôi nắm đựợc tình hình làm ăn của dân. Những người ra vào làm ăn ở khu vực sân bay cung cấp tình hình trong sân bay cho chúng tôi. Trên cơ sở nắm tình hình, chúng tôi chuẩn bị phương án trinh sát đột nhập, tập trung vào các điểm hàng rào, bãi mìn, đường băng, nơi đỗ máy bay, kho tàng, thông tin, trung tâm chỉ huy… Trinh sát xong, báo cáo cấp trên, tổ trinh sát đưa chỉ huy các đơn vị vào nắm tình hình trận địa, từ đó xây dựng phương án, huấn luyện chiến đấu. Cuối năm 1953, tỉnh nhất trí và lựa chọn các lực lượng đánh sân bay gồm 130 cán bộ, chiến sỹ. Mục tiêu là phá huỷ toàn bộ sân bay. Nhưng khi lực lượng vượt sông Văn Úc thì bị địch phát hiện, tàu chiến địch bắn chìm thuyền làm một số bị thương vong và bị bắt. Trận đánh phải hoãn lại.
Sau lần xuất quân bị lộ đó, tổ trinh sát đã đề xuất với cấp trên thay đổi lại phương án tác chiến, đó là “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to”. Thực hiện phương án này, tổ trinh sát của chúng tôi lại được lệnh chuyển hướng trinh sát, nắm lại tình hình. Tổ dẫn đồng chí Lê Thừa Giao chỉ huy tiểu đoàn 204 cùng vào. Trong quá trình trinh sát, tổ chức diễn đi diễn lại nhiều lần đột nhập và đã có những “sự cố” nhớ đời. Lần đầu vừa qua hàng rào một đồng chí trinh sát đá phải mìn, mìn nổ, sáng trưng một vùng, tôi đành phải kéo anh em vào trong sân bay. Địch dồn quân ra vây ngoài hàng rào, tìm không thấy gì, chúng nói với nhau: “chắc có con gì đi qua”. Lần khác vào trinh sát trạm xăng, đồng chí Hồng khi ngó đầu vào trong đã va vào một cánh cửa đánh “rầm”. Tôi đành kéo anh em trốn vào gầm máy bay. Chúng tôi nghe rõ bọn địch nói với nhau: “chắc gió to cửa sổ va vào nhau (!)”. Một tình huống khác, trời mưa dầm gió bấc, vì quá say sưa điều tra nên tổ quên cả giờ rút, đành nằm lại trong bụi cây mộc đắng, không may lại trúng một tổ kiến lửa. Gần một ngày nằm yên không nhúc nhích, tối đến, người vừa đói, mệt, toàn thân phồng dộp như bị phỏng cháy.
Sau khi hoàn tất công tác trinh sát, cấp trên quyết định tổ chức đánh. Lực lượng tham gia lần này giảm tới 2/3 chỉ gồm 32 người, 2 chỉ huy, 6 trinh sát, 24 chiến đấu viên, chia làm 2 mũi. Trang bị chủ yếu là thủ pháo, lựu đạn, tiểu liên. Ngày 3-3-1954 xuất quân ra bờ sông Văn Úc thì gặp tàu địch. Hôm sau cũng vậy. Phải thay đổi. Sáng 5-3 tới xã Hoà Nghĩa, ban ngày toàn đội hình chiến đấu xuống hầm, 19g30 đơn vị vượt qua đường 14, sông Lạch Tray. Trinh sát mở cửa, cắt dây thép, gỡ mìn đưa lực lượng vào. Đội hình chia làm hai mũi, mũi chủ yếu gồm 13 chiến đấu viên, 3 trinh sát, đánh vào khu máy bay B26, mũi thứ hai đánh vào khu máy bay trinh sát vận tải. Đúng giờ G, cả sân bay như chìm trong bão lửa, tiếng bộc phá, lựu đạn, tiếng đạn nổ hỗn loạn, máy bay địch cháy đỏ góc trời. Bọn địch sau cú choáng váng đã chống trả quyết liệt. Nhưng chúng không có cách nào dập tắt được cơn bão lửa đang tràn ngập toàn bộ sân bay! Hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị đã rút ra ngoài an toàn.
Đây là một trận đánh chuẩn bị rất khó khăn nhưng cũng rất công phu, kỹ lưỡng, đảm bảo bí mật. Một trận đánh lớn nhất, tiêu diệt nhiều máy bay nhất, 59 chiếc chủ yếu là máy bay chiến đấu. Trận đánh đã phối hợp kịp thời, hiệu quả đối với chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: Chiến thắng trong trận đánh sân bay Cát Bi có ý nghĩa nhất đối với chiến dịch Điện Biên Phủ. Một “cầu hàng không” chủ yếu của Pháp đã bị cắt, tạo điều kiện để dân công, quân đội vào Điện Biên Phủ, giảm tối đa sự chi viện của Pháp cho căn cứ chiến lược này.
Có thể nói đây là trận đánh có ý nghĩa mở đầu, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm xây dựng lực lượng, nghiên cứu trang bị vũ khí, tìm ra cách đánh cho lực lượng đặc công, biệt động sau này. Lúc đó, 32 người đánh một sân bay, sau này ở miền Nam ta chỉ cần 1 tiểu đội. Lúc đó bình quân 2 kg thuốc nổ đánh một máy bay, sau này ta chỉ cần 200g. Và một bài học thành công rất cơ bản đó là lòng dân. Phải xây dựng đựợc cơ sở trong nhân dân làm bàn đạp để trinh sát và ém quân khi tấn công.
Đoàn chiến đấu đánh sân bay Cát Bi được nhận thư khen của Bác Hồ: Bác chúc mừng chiến công của cán bộ, nhân dân Kiến An. Bác tặng đoàn đánh Cát Bi danh hiệu “Dũng sỹ Cát Bi”. Toàn đoàn được thưởng 4 Huân chương Quân công và 28 Huân chương Chiến công.
Bản thân tôi đựơc tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và được đơn vị bình bầu là “Dũng sỹ số 1”của trận đánh, là người đã tổ chức và triển khai thực hiện xây dựng cơ sở, tạo điều kiện cho các lực lượng chiến đấu thắng lợi. Tôi còn được đồng chí Tỉnh đội trưởng tặng khẩu cạc bin, được đi dự Đại hội thanh niên dân chủ thế giới. Bài học tôi ghi nhớ: Dù tài giỏi, dũng khí đến đâu mà không có dân thì cũng khó giành thắng lợi.
CÁNH QUÂN THỨ 6 GIẢI PHÓNG TRƯỜNG SA TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
(Ký ức 15 ngày giải phóng Trường Sa của thiếu tướng Mai Năng )
Năm 1969, khi tuyên dương là đại úy, đội trưởng Đội I đặc công nước Đoàn 126, ông được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ông đã có công tham gia xây dựng ngành đặc công của hải quân, nghiên cứu phát triển cách đánh mới độc đáo, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chỉ huy Đội 1 đặc công đánh chìm và đánh hỏng 30 tàu đối phương (3 lần Đội được tuyên dương Anh hùng), tham gia chỉ huy Đoàn 126 đánh chìm nhiều tàu địch trên tuyến Cửa Việt – Đông Hà (từ 14 đến 28.4.1975), chỉ huy bộ đội đặc công chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa.
Sau 15 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đã hoàn toàn làm chủ 6 đảo do quân ngụy chiếm đóng trên quần đảo Trường Sa. Tương quan lực lượng hai bên:
Thiếu tướng Mai Năng cho biết, tháng 3/1975, sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, chiến trường miền Nam chuyển biến rất mau lẹ, thời cơ giải phóng hoàn toàn đất nước đã tới. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhìn nhận, chúng ta cần phải gấp rút giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa – vùng lãnh hải có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế và quân sự mà quân ngụy đang nắm giữ.
Bức điện đặc biệt mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi cho Khu ủy, Bộ Tư lệnh (BTL) Quân khu 5 và BTL Hải quân, chính thức giao nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa ghi rõ: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy giao nhiệm vụ cho Khu ủy, Quân khu ủy, BTL Quân khu 5 và BTL Hải quân khẩn trương nghiên cứu kế hoạch tác chiến và tiến hành mọi công tác chuẩn bị để khi có thời cơ thì kịp thời giải phóng quần đảo Trường Sa, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng”.
Đầu tháng 4, thiếu tướng Mai Năng nhận nhiệm vụ vào Đà Nẵng chỉ huy đơn vị hợp thành giữa Trung đoàn đặc công hải quân và đặc công quân khu V, với 3 tàu không số là 673, 674 và 675 của Đoàn 125 huyền thoại, ra giải phóng Trường Sa.
Lúc đó, có 6 hòn đảo đang trong quyền kiểm soát của quân ngụy, và nếu đánh đồng loạt 6 đảo thì chúng ta phải có ít nhất 9 con tàu, mỗi tàu đánh một đảo, và 3 chiếc còn lại cơ động thực hiện những nhiệm vụ khi cần thiết.
Tuy nhiên, lực lượng hiện tại chỉ có 3 tàu vận tải không số với hơn 200 con người, cho nên phương án cuối cùng được thống nhất là các chiến sĩ sẽ đánh và rút kinh nghiệm ở đảo đầu tiên giải phóng được rồi phát triển ra các đảo khác, trinh sát đến đâu sẽ đánh đến đó.
Thế nhưng, đây là chiến dịch có tính chất lịch sử nên anh em trong đoàn nắm chặt tay nhau thề xa mấy cũng phải đi, khó mấy cũng phải đến và đến là đánh, quyết giành thắng lợi ngay từ đầu.
Trong các đảo mà quân đội Việt Nam Cộng hòa đang chiếm giữ, hạn chế lớn nhất của chúng là lực lượng cũng tương đối mỏng, khả năng ứng cứu từ đất liền hoặc giữa các đảo với nhau không dễ dàng, nhất là tinh thần địch lại hoang mang do những thất bại liên tiếp từ đất liền. Chúng ta chọn đánh đảo Song Tử Tây đầu tiên, vì đây là chỗ yếu nhất và cũng để thăm dò những phản ứng của đối phương, và làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại.
Ngày 11/4/1975 lực lượng giải phóng đảo trên 3 con tàu không số được cải trang thành tàu đánh cá hướng về phía Trường Sa. Toàn bộ cán bộ chiến sĩ, đặc công đều nằm dưới hầm tàu, phía trên là lưới, ngư cụ dùng để nghi binh. Tuy nhiên, vừa mới đi được vài chục hải lý, thì trên bầu trời xuất hiện máy bay địch quần thảo thăm dò.
Nhằm đánh lạc hướng, thiếu tướng Mai Năng hạ lệnh: Tiếp tục hành trình, hướng ra vùng biển quốc tế và phía đảo Hải Nam (Trung Quốc) như những tàu đánh cá của nước ngoài. Sau vài lần quần đảo, thăm dò, máy bay địch bỏ đi, đoàn tàu không số quay lại hướng Trường Sa thẳng tiến.
Sau 3 ngày hành quân trên biển, những chiếc tàu không số đã áp sát đảo Song Tử Tây. Giả dạng là tàu đánh cá, tàu của ta tiến hành trinh sát để rồi 4 giờ sáng ngày 14/4/1975, tàu 673 tiếp cận đảo, chia làm ba mũi bí mật đổ bộ.
Mũi một có trang bị hỏa lực B40, B41 và một khẩu DKZ đánh từ hướng nam của đảo. Mũi hai đánh từ hướng tây của đảo cũng được trang bị B40 và B41. Mũi ba gồm hai tổ đặc công đánh từ hướng đông nam của đảo. Các mũi đã bí mật áp sát các mục tiêu mà địch không hề hay biết.
Thiếu tướng Mai Năng kể lại, lúc xuất quân xuống nước được 30 phút, bắt đầu áp sát bãi san hô thì bất ngờ ông nhận được mệnh lệnh dừng lại, khoan đánh Song Tử Tây. Bản thân ông Năng lúc ấy chưa hiểu nguyên nhân gì. Suy nghĩ một lúc, ông quyết định dừng mọi liên lạc với đất liền vì sợ địch sẽ phát hiện, đồng thời lệnh cho thuyền trưởng tàu 673 nhanh chóng tổ chức lực lượng, triển khai giải phóng đảo.
Sau khi hiệu lệnh từ khẩu súng DKZ của đội trưởng Nguyễn Ngọc Quê phát ra, các mũi tiến công nhất loạt ào lên tấn công dữ dội. Địch bị đánh bất ngờ, chúng chống cự yếu ớt và đầu hàng chỉ sau 30 phút. Lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát treo lên đỉnh cột cờ phía đông đảo Song Tử Tây.
Khi nghe tiếng loa và nhìn thấy lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, viên sỹ quan chỉ huy quân ngụy phòng thủ đảo đã hạ lệnh cho binh lính đầu hàng.
CHÚNG TÔI CHỈ ĐẦU HÀNG NGƯỜI VIỆT NAM
Tới nay, sau 40 năm chỉ huy lực lượng giải phóng đảo, Thiếu tướng Mai Năng vẫn khẳng định rằng: “Chúng ta giải phóng đảo Song Tử Tây nhanh như vậy nên các đảo khác đơn giản hơn. Địch đầu hàng nhanh chóng một phần do hỏa lực mạnh của ta, nhưng còn một lý do khác…” .
Ổng kể, sau thời khắc cắm cờ giải phóng và toàn bộ quân địch đồn trú trên đảo ra trình diện, viên sĩ quan chỉ huy ngụy đã đến xin gặp ông và bảo rằng: “Chúng tôi đã nhận được lệnh tử thủ đến người cuối cùng và nếu như quân nước ngoài đến đánh chiếm đảo thì chắc chắn chúng tôi sẽ làm vậy. Khi nghe tiếng loa và nhìn thấy lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, biết chắc chắn là quân Bắc Việt, tôi đã hạ lệnh cho anh em đầu hàng. Tôi khẳng định lại với ông một lần nữa, chúng tôi chỉ đầu hàng người Việt Nam, và mong rằng người Việt Nam đừng phải đổ máu thêm nữa…”.
Trước những lời nói chân tình của viên sĩ quan ngụy, Thiếu tướng Mai Năng cùng các chiến sĩ hết sức xúc động. “Mới giải phóng được hòn đảo đầu tiên, dù phía trước còn rất nhiều khó khăn, nhưng những câu nói đó đã làm cho tôi cũng như những chiến sĩ khác thấy bình yên trở lại”, ông Năng tâm sự.
Về sau, ông Năng mới biết được viên sĩ quan chỉ huy bảo vệ Song Tử Tây có họ hàng với một đồng chí lãnh đạo của Quân chủng Hải Quân thời đó. Thật trớ trêu khi hai chú cháu ở hai đầu chiến tuyến. Điều mà ông tâm đắc nhất sau trận đánh đầu tiên giải phóng quần đảo Trường Sa, chính là việc những người lính ngụy trên Song Tử Tây dù đã là tù binh, họ vẫn luôn thể hiện tinh thần dân tộc, ý chí quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Họ chỉ buông súng khi biết rằng lực lượng đánh đảo là người Việt Nam. Bản thân họ cũng đã quá chán ngán chiến tranh, ghét cảnh nồi da nấu thịt giữa những con người Việt Nam với nhau.
Thiếu tướng Mai Năng: “Họ buông súng khi biết lực lượng giải phóng đảo là người Việt Nam”
Song Tử Tây mất, chính quyền Sài Gòn cho 2 tàu chiến cùng với trực thăng từ Vũng Tàu ra biển Đông hòng chiếm lại đảo. Nhưng do chúng đang hoang mang vì liên tiếp gặp thất bại trên chiến trường miền Nam, mặt khác lại không nắm được tình hình bố trí của phòng thủ của ta trên đảo, cho nên chúng chỉ lảng vảng một thời gian ngắn rồi kéo nhau về đảo Nam Yết cố thủ.
Liên tiếp các đảo khác như Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa… nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sỹ quan, binh lính ngụy chen nhau ra tàu chạy về đất liền. Không có tàu thì tìm xuồng, cano, hay bất kể thứ gì miễn có thể trốn chạy càng nhanh càng tốt.
Ngày 21-4-1975 trên đất liền, phòng tuyến Xuân Lộc bị chọc thủng, cánh cửa phía Đông của Sài Gòn mở toang; tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từ chức, quân ngụy hoang mang cực độ… Nhận thấy thời cơ lớn đã đến, Thiếu tướng Mai Năng chỉ huy lực lượng tiếp tục đánh chiếm giải phóng các đảo còn lại trong quần đảo Trường Sa do địch đang chiếm giữ. Tin thắng trận liên tục báo về.
Rạng sáng 25-4, các mũi tàu của quân ta bám sát đảo Sơn Ca, đổ bộ lên đảo. Đối phương mất thế, chống trả yếu ớt, chưa đầy 30 phút, lực lượng ta hoàn toàn làm chủ Sơn Ca, kéo cờ chủ quyền. Tin đảo Sơn Ca hoàn toàn giải phóng nhanh chóng khiến đối phương các đảo còn lại vội vàng rút chạy khỏi các đảo còn lại. Sáng 27/4, ta làm chủ hoàn toàn đảo Nam Yết, 28-4 là đảo Sinh Tồn và một số hòn đảo khác…
9 giờ 30 phút ngày 29/4/1975, phân đội chiến đấu cuối cùng của Đoàn 126 đặc công đã hoàn thành việc đổ bộ và làm chủ đảo Trường Sa lớn, xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.
Thiếu tướng Mai Năng kể lại, sau khi Trường Sa được giải phóng, chỉ một thời gian ngắn sau ông cùng các chiến sĩ đã thấy xuất hiện những con tàu lạ lởn vởn. Đó là những con tàu quân sự nhưng không có số, không có ký hiệu. Nhìn thấy lá cờ giải phóng bay phấp phới trên đảo, chúng đã bỏ đi.
Ông Năng cùng các chiến sĩ giải phóng đảo càng thấm thía chủ trương của cấp trên giao phó, đó là phải bí mật, nhanh chóng giải phóng các đảo ở quần đảo Trường Sa đang do quân Sài Gòn đóng giữ, kiên quyết không để lực lượng nào khác lợi dụng tình hình lúc đó chiếm đóng.
“Có thể nói, quyết định giải phóng Trường Sa đã thể hiện sự thông minh, sáng tạo và quyết đoán của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Giải phóng quần đảo này, chúng ta đã giải phóng một vùng lãnh hải lớn hơn rất nhiều lần so với đất liền. Vùng lãnh hải này giàu có, phong phú về hải sản, phong phú về tài nguyên, tạo được một tuyến phòng thủ đất nước từ xa, khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Trong thời điểm đó, chúng ta không có những trang thiết bị hiện đại. Thứ duy nhất ta có là ý chí và niềm tin, nó đã giúp chúng ta thắng lợi trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.
Sau tháng 4 năm 1975, tướng Năng về tham gia Chiến dịch biên giới Tây Nam rồi Chiến dịch biên giới phía Bắc. Ông từng giữ chức vụ Tư lệnh Binh chủng Đặc công.
Ông được Nhà nước phong tặng những danh hiệu cao quý :
Phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND ngày 20/12/1969
Huân chương kháng chiến (1 hạng nhất, 1 hạng nhì)
Huân chương Quân công (1 hạng nhì, 1 hạng ba)
Huân chương Chiến công (1 hạng nhất, 1 hạng nhì)
Phong hàm thiếu tướng, tư lệnh đặc công năm 1992.
Sau thời gian về hưu năm 1998, ông là Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hải Phòng.
“Ngày nay, trang bị của lực lượng đặc công Hải quân rất hiện đại, đã có sự hỗ trợ của tàu ngầm, nhưng quyết định cho chiến thắng vẫn là yếu tố con người”, vị chỉ huy trận chiến giải phóng Trường Sa năm nào cho biết.
Đội hình tàu ngầm Kilo đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hiện đại hoá vũ khí, khí tài quân sự, nâng cao sức chiến đấu của Hải quân nhân dân Việt Nam. Tàu ngầm Kilo cùng các tàu mặt nước, tàu hộ vệ là phương tiện hiện đại làm nhiệm vụ tuần tra, trinh sát, bảo vệ các căn cứ hải quân, khu vực bờ biển, vùng biển của Việt Nam.
Ngày 28/2/2017, tại lễ thượng cờ hai tàu ngầm HQ-186 Đà Nẵng và HQ-187 Bà Rịa-Vũng Tàu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: “việc hiện đại hóa hải quân, phát triển lực lượng tàu ngầm là việc làm bình thường của quốc gia có biển. Đó không phải là chạy đua vũ trang, không phải để răn đe các nước trong khu vực, mà để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong mọi tình huống”
TÌNH YÊU, Ý CHÍ VÀ NIỀM TIN VÀO NGÀY ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT 30/4/1975
Ông còn kể về mối tình với cô du kích vùng Tiên Lãng. Người con gái đồng bằng, mặc áo nâu non, thắt khăn mỏ quạ, bắn súng trường rất tài ấy đã phải lòng anh bộ đội trinh sát đẹp trai, hiền lành, hơn mình 6 tuổi. Anh bộ đội trinh sát gan dạ ấy cũng yêu đến si mê cô du kích đồng bằng xinh xắn, nết na. Tình yêu của họ bền chặt dần lên trong những tháng ngày chống Pháp gian khổ. Và trước hôm người tổ trưởng trinh sát Mai Năng dẫn bộ đội vào tấn công sân bay Cát Bi 3 ngày, họ đã làm đám cưới. Năm trong sáu người con của họ nối nghiệp cha, trở thành những cán bộ quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Ông còn được biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thiếu tướng Mai Năng là một trong những cán bộ đặc công nước đầu tiên, tham gia chiến đấu và chỉ huy nhiều trận đánh vang dội của đặc công nước, phá huỷ trên 3.000 tàu, thuyền của Mỹ. Ông cũng là người đưa kinh nghiệm chiến đấu của đặc công nước trên chiến trường trước kia vào xây dựng các phương án tác chiến trên cạn. Đó là cách đánh trực tiếp vào sở chỉ huy của địch theo kiểu “chuột nhắt chui kho, vào nhỏ ra to” gây cho đối phương không ít phen điêu đứng…
Trở về với đời thường, ông có nhiều thời gian quan tâm hơn đến bộ đội Lữ đoàn Đặc công 126 Hải quân, đơn vị mà ông đã cùng với đồng đội dày công xây dựng. Hơn 50 năm đã trôi qua kể từ ngày ông đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nên Lữ đoàn Đặc công 126 Hải quân với bao nhiêu chiến công, thành tích, tạo nên một bề dày truyền thống đầy tự hào… Đoàn đặc công 126 mà Thiếu tướng Mai Năng là Phó đoàn đã 2 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đội 1 đặc công nước mà Thiếu tướng Mai Năng từng là đội trưởng đã 3 lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Thiếu tướng Mai Năng cũng đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông cũng đã thực hiện đúng lời căn dặn của Bác Hồ vào năm 1961 : “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời căn dặn của Bác với các chiến sĩ hải quân ngày ấy ẩn chứa sâu xa luận điểm của Người, là sự khái quát rất ngắn gọn và dễ hiểu về lịch sử truyền thống về Tổ quốc, về tiềm năng của biển nước ta và trách nhiệm của mọi thế hệ người Việt Nam phải biết khai thác, quản lý và bảo vệ biển. Đó chính là kim chỉ Nam đã ăn sâu vào tiềm thức của người lính Đặc công hải quân trong suốt quá trình rèn luyện, chiến đấu, chống giặc ngoại xâm; chính những người lính đặc công ấy đã góp phần làm nên tên tuổi ông: Thiếu tướng Mai Năng – MỘT VỊ TƯỚNG TRÍ DŨNG SONG TOÀN HỌ TẠ.
Tạ Ngọc Nam – BLSHTVN sưu tầm và biên soạn 30/4/2021
P/S : rất mong được sự đóng góp ý kiến của bà con họ Tạ cả nước để BLSHTVN ngày càng hoàn thiện. Thư gửi về địa chỉ email : banlichsuhotavietnam@gmail.com